Tôi tin rằng cuộc cách mạng có thể bắt đầu chỉ từ 1 sợi rơm này. Khi mới nhìn thoáng qua, sợi rơm có vẻ nhỏ, nhẹ và không mấy quan trọng. Khó có thể tin rằng nó có thể bắt đầu 1 cuộc cách mạng. Tuy nhiên, tôi đã nhận ra được sức mạnh ẩn chứa trong sợi rơm này. Với tôi cuộc cách mạng này rất thật.
Hãy nhìn vào những cánh đồng lúa mạch này. Khi chín nó sẽ cho năng suất khoảng 1300 pound (1 pound = 0.4536 kg) trên mỗi acre (1
acre = 0.405 ha). Tôi tin rằng đây là năng suất cao nhất đạt được ở quận Ehime. Và nếu đây là năng suất cao nhất ở quận Ehime thì đồng nghĩa với việc nó cũng là năng suất cao nhất nước bởi vì Ehime là khu vực nông nghiệp chính của Nhật Bản… và thêm nữa những cánh đồng này đã không được cày xới 1 tí gì trong suốt 25 năm qua.
Khi trồng trọt tôi chỉ đơn giản tung hạt giống lúa mạch trên các cánh đồng này vào mùa thu, khi những cây lúa vẫn còn trên cánh đồng. Vài tuần sau đó, tôi thu hoạch lúa và tán xạ rơm lên các cánh đồng. Tôi cũng làm điều tương tự khi trồng cây lúa gạo. Vụ lúa đông này sẽ được thu hoạch vào khoảng ngày 20 tháng 5. Và khoảng 2 tuần trước khi lúa chín hoàn toàn, tôi lại đi rải hạt giống lúa gạo vào khu vực có các cây lúa mạch này. Sau mùa đông, khi lúa đã được thu hoạch và đập xong, tôi lại rải rơm của các cây lúa mạch lên cánh đồng.
Tôi tin rằng sử dụng cùng phương pháp để trồng lúa và vụ lúa đông chính là điểm độc đáo của cách trồng trọt này.Tuy nhiên vẫn có cách thức dễ hơn. Khi chúng ta đi qua những cánh đồng tiếp theo, hãy để tôi chỉ cho bạn thấy những ruộng lúa đã được gieo hạt vào mùa thu vừa rồi cùng lúc với vụ lúa đông. Toàn bộ việc gieo trồng được kết thúc trước ngày đầu năm mới.
Bạn có thể thấy rằng cỏ ba lá trắng và cỏ dại cũng mọc trên các cánh đồng này. Hạt giống cỏ ba lá được gieo xen kẽ các cây lúa vào khoảng đầu tháng 10, 1 khoảng thời gian ngắn trước lúa mạch. Tôi không cần quan tâm đến việc gieo trồng cỏ dại bởi vì nó tự mọc 1 cách khá dễ dàng.
Tóm lại việc gieo trồng trên cánh đồng này như sau: đầu tháng 10, hạt giống cỏ ba lá được gieo rắc xen kẽ với lúa, và vụ lúa xuân được thực hiện vào khoảng giữa tháng.
Đầu tháng 11, lúa được thu hoạch và hạt giống cho năm sau được gieo xuống và rơm được rải trên khắp cánh đồng. Lúa mạch bạn thấy trước mặt được trồng theo cách này. Để chăm sóc cho 1 cánh đồng rộng khoảng ¼ acre (mẫu anh – đơn vị đo diện tích), chỉ cần 1 hoặc 2 người làm việc vài ngày là đủ để chuẩn bị cho vụ lúa đông. Dường như có lẽ có cách đơn giản hơn để trồng trọt.
Phương pháp này hoàn toàn mâu thuẫn với các kỹ thuật canh tác nông nghiệp hiện đại. Nó vứt bỏ tất cả các kiến thức khoa học cũng như kỹ thuật trồng trọt truyền thống sang 1 bên. Với cách thức trồng trọt này, không sử dụng máy móc, không cần chuẩn bị phân bón, và không dùng 1 loại hóa chất nào; tuy nhiên vẫn cho năng suất tương đương hoặc cao hơn so với các nông trại khác ở Nhật Bản. Bằng chứng ở ngay trước mắt bạn.
Không gì cả
Gần đây mọi người bắt đầu hỏi tôi vì sao lại theo đuổi phương pháp này từ nhiều năm trước. Cho tới giờ, tôi chưa thảo luận việc này với bất kỳ ai. Bởi vì thật ra không có gì để nói về nó cả. Nó cực kỳ đơn giản, lúc ban đầu nó chỉ là 1 cú shock, 1 kinh nghiệm nhỏ hay 1 ý tưởng lóe lên.
Sự nhận thức này hoàn toàn thay đổi cuộc đời của tôi. Không có gì nhiều để nói về việc này cả, tuy nhiên có thể tóm gọn nó như sau: “Loài
người thật ra không biết gì cả. Không có giá trị nội tại trong bất cứ thứ gì, và mỗi hành động đều là những cố gắng vô ích, không có chút ý nghĩa nào”. Điều này nghe có vẻ phi lý, nhưng khi miêu tả nó bằng câu chữ thì đây là cách duy nhất để mô tả về nó.
“Suy nghĩ này” đột ngột xuất hiện trong đầu tôi khi còn rất trẻ. Tôi đã không chắc rằng có phải tất cả sự hiểu biết và cố gắng của con người đều vô nghĩa và không có giá trị hay không, nhưng tôi đã suy xét nhiều về điều này và cố gắng xóa nhòa ý nghĩa này, tuy nhiên tôi
không thể tìm thấy 1 sự mâu thuẫn nào về nó cả. Ý nghĩ đó cứ âm ỉ cháy trong tôi.
Có 1 niềm tin được chấp nhận rộng rãi đó là trí thông minh của con người là hoàn hảo, loài người là sinh vật có những giá trị đặc biệt, và những sự sáng tạo cũng như thành tựu về văn hóa và lịch sử là những điều tuyệt vời. Đó chính là niềm tin thông thường của mọi người.
Từ khi tôi bắt đầu có suy nghĩ đối nghịch lại với niềm tin này, tôi đã không thể giao tiếp cũng như chia sẻ tầm nhìn của mình với bất kỳ ai. Cuối cùng tôi quyết định chuyển những suy nghĩ của mình sang các ứng dụng trong thực tế, để xem nhưng hiểu biết của tôi là đúng hay sai. Tôi dành cả cuộc đời để trồng trọt lúa gạo và các vụ lúa đông – đây là những việc mà tôi đã làm.
Và kinh nghiệm này đã thay đổi cuộc đời tôi ra sao?
40 năm trước, khi tôi 25 tuổi. Tôi làm việc tại cục hải quan Yokohama tại Bộ phận kiểm tra cây trồng. Công việc chính của tôi là giám sát vấn đề sâu bệnh với các cây trồng được vận chuyển ra vào. Thật may mắn là tôi có khá nhiều thời gian rảnh rỗi, và tôi đã dùng nó để nghiên cứu trong phòng thí nghiệm, xem xét các vấn đề bịnh lý học của cây trồng. Phòng thí nghiệm này nằm kế công viên Yamate và nhìn xuống vịnh Yokohama từ con dốc. Đối diện là nhà thờ công giáo, và gần bãi biển là trường nữ sinh Ferris. Ở đây rất yên tĩnh, 1 môi trường hoàn hảo cho việc nghiên cứu.
Nhà nghiên cứu bệnh lý học tại phòng thí nghiệm là Eiichi Kurosawa. Tôi từng học về bệnh lý cây trồng với Makoto Okera, đó là 1 giáo viên
tại trường phổ thông nông nghiệp Gifu, và được sự hướng dẫn từ Suehiko Igata của Trung tâm kiểm định nông nghiệp quận Okayama.
Tôi rất may mắn khi được là sinh viên của giáo sư Kurosawa. Mặc dù ông không được biết đến trong giới hàn lâm thế giới,
nhưng ông là người đã cách ly và phát triển các loại nấm mà gây nên bệnh lúa von ở cây lúa. Ông là người đầu tiên trích xuất các kích thích tố phát triển của cây (gibberellin)
từ các loại nấm. Loại kích thích tố này, khi được hấp thụ 1 lượng nhỏ lúc cây lúa còn bé sẽ tạo nên 1 sự ảnh hưởng lớn đến cây trồng khiến nó mọc cao bất thường. Và khi nó phát triển quá mức, thì nó gây ra 1 phản ứng ngược lại, khiến sự phát triển cây bị chậm lại. Không mấy ai ở Nhật quan tâm đến khám phá này, nhưng với các nước khác nó là 1 chủ đề nóng. Rất nhanh sau đó, người Mỹ đã sử dụng gibberellin để tạo ra loại nho không hạt.
Tôi xem giáo sư Kurosawa như là cha của mình, và với sự hướng dẫn của ông, tôi đã phát triển 1 chiếc kính hiển vi và hết lòng nghiên cứu về các bệnh của nhựa cây trong thân, cành và trái của các cây chanh Mỹ và Nhật Bản.
Với kính hiển vi, tôi quan sát các loại nấm, lai chúng với nhau và tạo ra các giống gây bệnh mới. Tôi say mê với công việc của mình. Bởi vì công việc này đòi hỏi sự tập trung cao và chịu đựng, nên không ít lần tôi ngất xỉu vì căng thẳng, kiệt sức ngay tại phòng thí nghiệm.
Đây cũng là thời điểm của tuổi trẻ phơi phới và tôi cũng không dành hết thời gian của mình ở trong phòng thí nghiệm. Nơi này là hải cảng của thành phố Yokohama, 1 nơi rất tuyệt để dạo chơi và có những khoảng thời gian thú vị. Và đó cũng chính là thời điểm mà những điều kế tiếp xảy ra. Với chiếc máy ảnh trong tay, tôi thẫn thờ ở bến tàu và bắt gặp ánh nhìn của 1 phụ nữ xinh đẹp. Nghĩ rằng cô ấy có thể là chủ đề chính cho khung ảnh nên tôi đã mời cô ấy tạo dáng để tôi chụp. Tôi giúp cô lên boong của 1 chiếc tàu nước ngoài đang thả neo gần đó và hướng dẫn cô tạo dáng để tôi có thể chụp các bức ảnh. Cô ấy hỏi tôi có thể gửi cho cô các bức hình khi rửa xong được không. Tôi hỏi địa chỉ để gửi thì cô chỉ nói “Ofuna”
và đi mất mà không
nói tên của mình.
Sau khi rửa film xong, tôi đưa bức ảnh cho 1 người bạn và hỏi xem anh ta có biết cô gái này là ai không. Anh ta
nói 1 cách đầy phấn khích: “Đó
là Mieko Takamine, 1 ngôi sao màn bạc đấy”. Ngay sau đó
tôi gửi 10 tấm ảnh cỡ lớn đến thành phố Ofuna cho cô ấy. Không lâu sau, các tấm ảnh có kèm chữ ký được gửi lại cho tôi qua đường bưu điện. Tuy nhiên thiếu mất 1 tấm. Sau đó ngẫm nghĩ lại thì tôi mới nhận ra rằng đó là tấm hình chụp cận cảnh khuôn mặt, nó làm lộ những nếp nhăn của cô ấy. Tôi cảm thấy vui vì đã biết được chút ít về tâm lý của phụ nữ.
Những lúc khác, mặc dù còn vụng về và lúng túng nhưng tôi thường đến sàn nhảy ở khu vực Nankingai. Có 1 lần tôi bắt gặp cái nhìn của 1 ca sĩ nổi tiếng, Noriko Awaya và tôi đã mời cô ấy nhảy cùng. Tôi không bao giờ có thể quên cái cảm giác lúc ấy, vì tôi đã bị choáng ngợp bởi thân hình đẫy đà đó đến độ tay tôi không thể nào ôm hết vòng eo của cô ấy.
Lúc ấy tôi là 1 người bận rộn và cũng đầy may mắn, tôi dành thời gian của mình để khám phá những điều kỳ diệu của tự nhiên thông qua chiếc kính hiển vi, tôi ngạc nhiên khi thấy sự tương đồng giữa thế giới tí hon này với thế giới khổng lồ của vũ trụ vô tận. Vào chiều tối, dù có đang yêu hay không thì
tôi cũng đi chơi ở khắp nơi và tận hưởng cuộc sống. Tôi tin rằng cuộc sống không có mục đích này, cùng với sự mệt mỏi vì công việc đã khiến tôi bị ngất xỉu tại phòng nghiên cứu. Kết quả của tất cả điều này đã khiến tôi bị chứng viêm phổi cấp tính và bị chuyển vào phòng chữa trị bệnh tràn dịch màng phổi ở tầng trên cùng của Bệnh viện cảnh sát.
Đó là vào dịp mùa đông và những cơn gió lạnh cùng tuyết theo khe nứt của chiếc cửa sổ luồn vào khắp phòng. Người tôi thì ấm áp vì có chiếc chăn nhưng mặt tôi thì lạnh như băng. Y tá chỉ ghé qua để kiểm tra nhiệt độ của tôi rồi nhanh chóng đi mất.
Bởi vì đó là phòng bệnh cá nhân nên không có ai nhìn
vào cả. Tôi cảm nhận 1 sự lạnh buốt và ngay lập tức rơi vào trạng thái cô đơn và vắng vẻ. Tôi cảm giác như mình đang phải đối mặt với nỗi sợ cái chết. Giờ nghĩ lại thì thấy đó là 1 nỗi sợ nhảm nhí nhưng vào lúc ấy tôi cảm thấy rất thật.
Cuối cùng thì
tôi cũng được xuất viện, nhưng tôi đã không thể gượng dậy khỏi sự chán nản, suy sụp. Không biết lúc ấy sự tự tin của tôi nó đang
ở đâu. Tôi đã
không lo lắng gì và hài lòng, nhưng bản chất tự nhiên của sự tự mãn là gì?
Tôi cảm thấy đau đớn, nghi ngờ về bản chất tự nhiên của sự sống và cái chết. Tôi không
thể chợp mắt cũng không
thể làm việc được. Vào ban
đêm, trong lúc đi dạo quanh con dốc và hải cảng tôi cũng
không cảm thấy dịu đi được chút nào.
Vào 1 đêm trong lúc lang thang,
tôi ngã gục vì kiệt sức trên 1 ngọn đồi nhìn xuống vịnh, tôi mơ màng kế bên 1 cái cây lớn. Tôi nằm đó thiu thiu không ngủ cũng không thức cho đến khi bình mình. Tôi vẫn còn nhớ đó là vào buổi sáng ngày 15 tháng 5, tôi ngơ ngác ngắm nhìn bến tàu sáng lên dưới ánh nắng. Khi 1 cơn gió thổi xuống con dốc, sương mù chợt tan biến. Lúc ấy có 1 con diệc đêm cất tiếng kêu sau đó bay đi mất. Tôi có thể nghe cả tiếng đập cánh của nó. Vào khoảnh khắc ấy, tất cả nghi ngờ và sự mịt mù về thất bại của tôi biến mất. Tất cả những niềm tin của tôi, những thứ mà trước giờ tôi dựa vào theo gió cuốn đi. Tôi cảm thấy rằng mình đã thấu hiểu được 1 điều. Không cần nghĩ về nó, miệng tôi tự nhiên bật ra: “Trong
thế giới này, không có gì cả…” Tôi cảm thấy rằng tôi đã hiểu được “không
gì cả” (Hiểu cái “không gì cả” trong trường hợp này có nghĩa là nhận ra sự thiếu sót của những hiểu biết thuộc về trí tuệ).
Tôi có thể thấy rằng tất cả những khái niệm mà tôi đã bám vào, cả khái niệm về sự tồn tại cũng không có ý nghĩa. Tinh thần tôi trở nên nhẹ nhàng và trống rỗng. Tôi nhảy múa vì vui sướng. Tôi có thể nghe tiếng chim kêu trên cây và nhìn những con sóng lấp lánh dưới ánh mặt trời. Những lá cây đang nhảy múa, lấp lánh trong nắng. Tôi cảm thấy đây chính là thiên đường trần gian. Những thứ đã chiếm lấy tôi, tất cả sự đau đớn, biến mất giống như những giấc mơ và ảo ảnh, và 1 thứ có thể gọi là “Thiên
nhiên thuần khiết” được hé lộ.
Tôi nghĩ rằng nói rằng gọi trải nghiệm vào buổi sáng hôm ấy đã thay đổi cuộc đời tôi hoàn toàn.
.....Còn tiếp
No comments:
Post a Comment