Và mặc dù có những thay đổi trong nhận thức, nhưng tôi vẫn là 1 người bình thường với những sự dại khờ vốn có, và nó không hề thay đổi từ lúc ấy cho đến bây giờ. Nhìn từ bên ngoài tôi vẫn bình thường như trước, và cuộc sống hàng ngày của tôi cũng không có gì đặc biệt. Nhưng tôi bảo đảm là tôi biết 1 thứ đã không hề thay đổi từ lúc đó. Tôi đã dành ra 30, 40 năm
để kiểm tra xem tôi có sai lầm không trong suốt quá trình làm việc, nhưng tôi chưa từng 1 lần tìm được bằng chứng chống lại niềm tin đó.
Sự nhận thức này có giá trị to lớn nhưng không có nghĩa là các giá trị đặc biệt đó được đính kèm vào tôi. Tôi vẫn chỉ là 1 người bình thường, 1 lão nông dân. Với những người khác có thể họ sẽ thấy tôi là 1 người khiêm tốn hoặc kiêu ngạo. Tôi nói với những người trẻ hơn làm việc trên các cánh đồng của tôi rằng đừng cố gắng bắt chước tôi, và tôi rất giận khi thấy ai đó không chịu nghe những lời khuyên này. Tôi nói họ hay chỉ sống đơn giản, hòa hợp với tự nhiên và áp dụng điều đó vào công việc hàng ngày. Tôi không có gì đặc biệt cả nhưng những gì tôi nhận ra thì rất bao la và có giá trị.
Về vùng ngoại ô
Ngày kế tiếp sau trải nghiệm vào buổi sáng hôm ấy – 16 tháng 5 – tôi báo cáo lại toàn bộ công việc của mình và viết đơn xin nghỉ việc. Các cấp trên và bạn bè tôi rất ngạc nhiên. Họ không biết vì sao tôi làm như thế. Họ tổ chức 1 buổi tiệc chia tay cho tôi tại 1 nhà hàng nằm phía trên bến tàu, nhưng không khí có hơi khác thường 1 chút. Chàng trai trẻ này cho đến nay vẫn hòa đồng với mọi người, và dường như không có vẻ gì không thỏa mãn với công việc, ngược lại anh ta còn dành toàn tâm toàn ý
cho việc nghiên cứu, đột ngột lại ra quyết định nghỉ việc. Tôi chỉ ở đó và cười 1 cách hạnh phúc.
Lúc ấy tôi nói với tất cả mọi người: “Ở phía bên này của bến tàu. Phía bên này của bến tàu số 4. Nếu bạn nghĩ rằng sự sống nằm phía bên này vậy thì cái chết sẽ nằm ở phía bên kia, nếu bạn muốn dẹp bỏ ý tưởng về cái chết thì bạn nên bỏ đi khái niệm rằng có sự sống nằm ở phía bên này. Sự sống và cái chết là 1”
Khi tôi nói điều này, mọi người lo lắng hơn cho tôi: “Anh ấy đang nói gì thế? Anh ta chắc bị mất trí rồi”, chắc hẳn họ nghĩ như thế. Tất cả họ nhìn tôi với khuôn mặt buồn bã. Chỉ duy nhất có mình tôi là bước đi 1 cách nhanh nhẹn với tinh thần phơi phới.
Lúc đó người bạn cùng phòng rất lo lắng cho tôi và đề nghị là tôi hãy đi nghỉ, có thể là ở Boso Peninsula. Vì thế tôi đã đi. Tôi sẽ đi bất cứ đâu nếu có ai khuyên tôi. Tôi lên xe bus
và đi nhiều dặm đường, ánh mắt nhìn vào những ô ruộng cũng như những ngôi làng nhỏ nằm dọc bên đường. Tại 1 bến tôi thấy tấm bảng nhỏ ghi là “Utopia”.
Tôi quyết định xuống xe và bắt đầu cuộc tìm kiếm của mình ở đây.
Trên bãi biển có 1 căn nhà trọ nhỏ, và khi leo lên cái dốc tôi tìm thấy 1 nơi có quang cảnh tuyệt đẹp. Tôi đã ở lại căn nhà trọ và tận hưởng những ngày dài nằm mơ màng trên đám cỏ cao nhìn ra bãi biển. Có thể là vài ngày, 1 tuần hoặc 1 tháng, nhưng nói chung là tôi đã ở lại đó 1 khoảng thời gian nhất định. Ngày dần trôi qua cũng là lúc sự hào hứng của tôi giảm đi và tôi bắt đầu nhìn nhận xem chuyện gì đã xảy ra. Bạn có thể gọi thời điểm đó là lúc tôi trở lại với chính mình.
Tôi đã đi đến Tokyo và ở đó 1 thời gian, mỗi ngày tôi đi dạo trong công việc, bắt chuyện với mọi người, ngủ ở đây hoặc ở kia. Bạn bè của tôi lo lắng và họ đến hỏi tôi có ổn không. 1 người bạn của tôi hỏi: “Có phải anh đang sống trong 1 thế giới mơ mộng hão huyền không, 1 thế giới của ảo ảnh”. “Không” tôi trả lời, “chính
anh mới là người đang sống trong 1 thế giới của giấc mơ, của ảo ảnh”. Cả 2 chúng tôi đều nghĩ rằng “Tôi
thì đúng và anh thì đang sống trong mơ”. Khi người bạn của tôi đi và nói lời tạm biệt, tôi trả lời 1 câu đại loại như là: “Đừng nói lời tạm biệt, sự ra đi chỉ là sự ra đi mà thôi”. Người bạn của tôi dường như mất hết hy vọng về tôi.
Tôi rời Tokyo và đi qua vùng Kansai (Osaka, Kobe, Kyoto) và đi về phía nam Kyushu. Tôi tận hưởng cuộc sống của mình, đi hết nơi này đến nơi khác cùng với cơn gió. Tôi thách thức rất nhiều người với niềm tin của tôi đó là tất cả mọi thứ đều không có ý nghĩa và không có giá
trị, mọi thứ đều trở về bản chất hư vô của nó.
Nhưng điều này là quá nhiều, hoặc có thể là quá ít để mọi người có thể nhận thức được. Họ không nói gì về điều này cả. Tôi chỉ có thể nghĩ rằng khái niệm “không
có gì” này là 1 lợi ích to lớn của thế giới, và đặc biệt với thế giới hiện tại, khi mà mọi thứ chuyển động quá nhanh theo 1 chiều hướng ngược lại. Tôi thực sự cân nhắc về việc chia sẻ những điều này với tất cả mọi người trên đất nước. Nhưng kết quả thì ngược lại những gì tôi nghĩ, tôi đi đến đâu mọi người cũng phớt lờ hoặc coi tôi như 1 kẻ kỳ quặc. Vì thế tôi quay lại trang trại của cha tôi ở vùng ngoại ô.
Cha tôi đang trồng quýt vào thời điểm đó và tôi đã đến 1 túp lều ở trên núi và bắt đầu 1 cuộc sống giản dị và nguyên thủy. Tôi nghĩ rằng ngay tại đây, làm 1 người nông dân trồng chanh và ngũ cốc, tôi thực sự có thể chứng minh sự nhận thức của mình; thế giới sẽ nhận ra sự thật. Thay vì dùng hàng trăm lời giải thích, tại sao không vận dụng triết lý đó vào thực tế theo 1 cách tốt nhất? Phương pháp nông nghiệp “không
làm gì cả” (Với cách diễn giải này, ông Fukuoka muốn nhấn mạnh vào tính đơn giản tối đa của phương pháp. Cách canh tác này cũng cần những hoạt động nặng nhọc, đặc biệt là vào mùa thu hoạch, tuy nhiên nó vẫn đơn giản và nhẹ nhàng hơn rất rất nhiều so với các phương pháp khác) của tôi bắt đầu với suy nghĩ này. Đó là vào năm
Chiêu hòa thứ 13 (1938).
Tôi sống 1 mình ở trên núi và mọi thứ đều tốt đẹp cho đến khi cha tôi ủy thác cho tôi chăm sóc những cây đang trĩu quả trong vườn. Ông đã cắt tỉa chúng theo “hình dáng của những ly rượu sake” để trái cây có thể được thu hoạch dễ dàng. Khi tôi để yên chúng trong trạng thái này, kết quả là các cành cây mọc đan xen lẫn nhau và chẳng mấy chốc cả vườn cây bị khô héo và chết.
Tôi tin rằng cây trồng chúng sẽ tự mọc chứ không cần phải có sự can thiệp của con người. Và tôi đã thực hiện theo niềm tin này, mọi thứ nên để chúng phát triển tự nhiên, nhưng tôi nhận ra rằng nếu bạn thực hiện theo điều này tất cả cùng 1 lúc thì chúng sẽ không thể phát triển tốt được. Đây là sự bỏ rơi chứ không phải là
“canh tác tự nhiên”.
Cha tôi đã bị sốc vì điều này. Ông nói tôi phải tự kiểm điểm về việc này, có thể tôi nên tìm 1 công việc ở đâu đó và trở về khi nào quay về là chính mình. Vào lúc đó cha tôi
là trưởng làng và
khó chấp nhận cho những người khác trong cộng đồng về việc ông có 1 đứa con trai kỳ quặc, 1 người không thể hòa nhập với xã hội và sống bình thường như mọi người. Ngoài ra, tôi cũng không thích
phục vụ trong quan đội và cuộc chiến tranh diễn ra ngày càng khốc liệt hơn, vì thế tôi đã quyết định thực hiện theo nguyện vọng của cha tôi và đi tìm 1 công việc.
Vào thời điểm đó, các chuyên gia kỹ thuật rất ít. Trạm kiểm định quận Kochi biết về tôi và họ đã đề nghị với tôi làm trưởng bộ phận nghiên cứu của phòng Kiểm soát dịch bệnh và côn trùng. Tôi đã nhấp nhận lời đề nghị này và làm việc tại quận Kochi khoảng 8 năm. Tại trung tâm nghiên cứu, tôi trở thành giám sát ở lĩnh vực khoa học nông nghiệp, và cống hiến hết mình để nghiên cứu việc tăng sản lượng nông nghiệp trong thời chiến. Nhưng thực ra trong suốt 8 năm đó, tôi suy nghĩ nhiều về mối quan hệ giữa khoa học và nông nghiệp tự nhiên. Nền nông nghiệp hóa chất, tức là sử dụng các sản phẩm được làm ra từ trí tuệ của con người, được biết đến như là 1 cái gì đó tuyệt vời. Câu hỏi luôn luẩn quẩn trong tâm trí tôi lúc đó là liệu nông nghiệp tự nhiên có thể đứng vững và đối đầu khoa học hiện đại hay không.
Khi chiến tranh kết thúc, tôi cảm thấy 1 cơn gió tự do thổi đến, và khi cảm thấy lòng dịu lại tôi đã trở về quê nhà của mình để thực hành cách thức canh tác mới.
Tiến tới phương thức nông nghiệp không làm gì cả.
Trong vòng 30 năm, tôi chỉ sống trên các cánh đồng của mình và rất ít khi giao tiếp với những người bên ngoài cộng đồng. Suốt những năm này, tôi toàn tâm toàn ý thực hiện theo phương thức nông nghiệp “không
làm gì cả”.
Cách thông thường mọi người hay dùng để cải tiến 1 phương pháp nào đó là họ đặt câu hỏi “Thử cái này xem sao?” hoặc “Thử cái kia xem sao” và từ đó tạo ra hàng loạt các kỹ thuật khác nhau. Đây chính là nền nông nghiệp hiện đại và kết quả là nó chỉ khiến người nông dân bận rộn hơn.
Phương pháp của tôi thì hoàn toàn ngược lại. Tôi hướng đến 1 cách thức tự nhiên, đơn giản để làm nông nghiệp (Nông nghiệp được đơn giản tối đa và hòa hợp với môi trường tự nhiên chứ không phải các phương thức hiện đại can thiệp thô bạo vào tự nhiên nhằm độc chiếm lợi ích cho con người) và kết quả là khiến công việc ngày 1 đơn giản hơn. “Thử không làm cái này xem sao?” – “Thử không làm cái kia
xem sao”. Đó là cách mà tôi suy nghĩ. Cuối cùng tôi đã đi đến kết luận rằng chúng ta không cần phải cày xới, không cần phải bón phân, không cần phải trộn phân, không cần dùng thuốc diệt côn trùng. Khi bạn đã hòa hợp với tự nhiên thật sự thì còn lại rất ít việc cần phải làm.
Nguyên nhân mà con người phát triển các kỹ thuật và dường như khiến chúng cần thiết với nông nghiệp đó là sự cân bằng của tự nhiên hiện tại rất tồi tệ, bởi vì đất đai đã bị lệ thuộc vào các kỹ thuật canh tác trước đó.
Và nguyên nhân này không chỉ đúng với nông nghiệp, mà nó cũng chính xác với các khía cạnh khác của xã hội loài người. Các bác sĩ và thuốc men trở nên cần thiết khi mọi người tạo ra 1 môi trường sống bệnh hoạn, tồi tệ. Trường học không có giá trị gì cả, nhưng nó trở nên cần thiết khi loài người tạo ra điều kiện sống mà trong đó 1 người phải đến trường mới có thể sống được sau này.
Trước khi cuộc chiến tranh kết thúc, tôi đã đi đến vườn quýt để thử nghiệm canh tác tự nhiên theo những gì tôi đã nghĩ, tôi không cày xới mà để cho vườn tự phát triển. Các cành cây nhanh chóng mọc đan vào nhau, cây bị tấn công bởi côn trùng và gần 2 acres cây quýt tàn
úa và chết. Lúc đó câu hỏi “Khuôn mẫu của tự nhiên là gì?” luôn nằm trong đầu tôi. Trong lúc đi
tìm câu trả lời, tôi đã quét sạch hết 400 cây quýt. Cuối cùng tôi cảm thấy mình có thể nói 1 cách chắc chắn: “Đây chính là khuôn mẫu tự nhiên”.
...Còn tiếp
No comments:
Post a Comment